KỸ THUẬT TRỒNG NẤM MỠ
1.1.
Tên gọi và vị trí phân loại:
- Tên khoa học: Agaricus bisporus; A.
bitorquis.
- Tên tiếng Anh -
thương mại: Button mushroom; White mushroom, Champignon de Paris.
- Tên khác: Nấm
trứng, Nấm trắng, Nấm búp, Nấm khuy.
- Nấm mỡ thuộc chi
Agaricaceae, bộ Agaricales, lớp Hymenomycetes, ngành phụ Basidiomycotina, ngành
Nấm thật- Eumycota, giới Nấm- Mycota.
- Nấm mỡ nuôi trồng ở
nước ta chủ yếu là loài Agaricus bisporus, ngoài ra còn có các chủng A.
bitorquis, A. blazei (có màu nâu). Nấm mỡ được nuôi trồng đầu tiên ở Pháp
(1650) ở Việt Nam được nuôi trồng vào những năm 80 của thế kỷ trước.
1.2.
Đặc tính sinh học của nấm mỡ:
- Nấm mỡ có nguồn gốc từ những nước có
khí hậu ôn đới. Quả thể nấm gồm cuống nấm và mũ nấm. Mũ nấm có màu
trắng, đường kính từ 3- 8,0cm. Khi cây nấm trưởng thành, màng bao phía
dưới bị rách nấm xoè như chiếc ô, các bào tử nấm mầu nâu sẫm phát tán ra ngoài.
Trong điều kiện tự nhiên gặp môi trường thuận lợi các bào tử nảy mầm thành hệ
sợi sơ cấp và kết với nhau thành sợi thứ cấp. Sợi thứ cấp tích luỹ đủ dinh
dưỡng hình thành quả thể và chu kỳ mới lại bắt đầu.
- Nhiệt độ thích hợp
trong giai đoạn nuôi tơ là 24 - 25oC, giai đoạn ra nấm cần nhiệt độ từ 15-
180C.
- Độ ẩm trong cơ chất
(nguyên liệu compost) từ 65 - 70%. Độ ẩm không khí > 80%.
- pH của môi trường
nuôi trồng cũng như nước tưới bằng 7,0 - 8,0 (trung tính hoặc kiềm yếu).
- Ánh sáng: không cần
thiết cả giai đoạn nuôi sợi và quả thể.
- Độ thông thoáng vừa
phải nồng độ CO2 < 0,1%.
- Dinh dưỡng: nấm mỡ
không sử dụng Cellulose trực tiếp mà sử dụng thức ăn là bã “mục thứ cấp”
nên ta phải có quá trình xử lý nguyên liệu và phối trộn thêm các phụ gia (phân
hữu cơ, phân vô cơ) để tạo môi trường thích hợp nhất cho nấm phát triển gọi là
compost.
- Hàm lượng các chất
dinh dưỡng trong compost trồng nấm mỡ tối ưu gồm:
N (đạm)
2,2- 2,5%.
P (phot
pho)
1,2- 2,5%.
Ca (Can
xi)
2,5- 3,0%.
Tỷ lệ: C/N
là:
14- 16/1
Lượng NH4
(amoniac): < 0,1%.
w (độ
ẩm): 65-
70%.
2.
Thời vụ nuôi trồng nấm mỡ:
Nấm mỡ chủ yếu trồng
ở các tỉnh phía Bắc, miền Nam nấm được trồng ở Đà Lạt. Vụ nấm kéo dài từ 15/10
năm trước tới 15/4 năm sau. Nhưng thời gian ủ rơm rạ chỉ giới hạn từ 15/10 đến
5/12 dương lịch hàng năm. Tốt nhất là ủ rơm rạ từ 15/10 đến 15/11. Nếu làm sớm
hoặc làm muộn hơn sẽ gặp thời tiết không thuận lợi, dẫn đến năng suất thấp.
3.
Xử lý nguyên liệu (chế biến compost- cơ chất) trồng nấm mỡ:
3.1. Công thức phối trộn nguyên liệu:
Công thức 1:
- Rơm rạ
khô:
1.000kg.
- Đạm Urea: 5kg.
- Đạm sulfat amon (SA): 20kg.
- Bột nhẹ (CaCO3) 30kg.
- Super lân (P2O5) : 30kg.
- Đạm Urea: 5kg.
- Đạm sulfat amon (SA): 20kg.
- Bột nhẹ (CaCO3) 30kg.
- Super lân (P2O5) : 30kg.
Công thức 2:
- Rơm rạ khô: 1.000kg.
- Đạm Urea: 3kg.
- Phân gà khô: 150kg.
- Bột nhẹ (CaCO3) 30kg.
- Ở nước ta phần lớn
lao động thủ công nên khi sử dụng công thức 2 phải chú ý vấn đề vệ sinh lao
động.
- Có thể tăng, giảm
lượng nguyên liệu chính là rơm rạ và các chất phụ gia điều chỉnh theo tỷ lệ của
công thức nhưng đống ủ phải tối thiểu có từ 500kg rơm rạ mới đảm bảo quá trình
lên men sinh nhiệt hữu hiệu.
3.2.
Quy trình công nghệ xử lý nguyên liệu:
* Cách làm ướt rơm
rạ:
- Rơm rạ khô được làm
ướt trong nước vôi (theo tỷ lệ 1 tấn rơm rạ cần 10kg vôi đã tôi) bằng các cách
sau:
+ Đổ nước vôi đã gạn
trong vào bể khoảng 3,5 - 4kg vôi đã tôi cho 1m3 nước) ngâm rơm rạ chìm trong
nước vôi 15 - 30 phút, vớt ra để ráo bớt nước rồi ủ đống.
+ Ngâm rơm rạ xuống
ao hồ, kênh rạch,… vớt lên bờ cứ 1 lớp rơm rạ 20- 30cm lại tưới một lớp nước
vôi (dùng ô doa tưới).
+ Rải rơm rạ ra sân
bãi, phun nước trực tiếp bằng máy bơm hoặc ô doa trong nhiều giờ (kiểu mưa dầm)
đến khi rơm rạ đủ ướt sẽ có màu nâu sẫm, lấy nước vôi tưới lên lượt cuối cùng
và ủ đống.
+ Lợi dụng trời mưa,
tung rơm rạ ra sân, tưới lại bằng nước vôi đợt cuối rồi ủ đống.
* Ủ đống và quá trình đảo ủ nguyên liệu:
* Ủ đống và quá trình đảo ủ nguyên liệu:
- Khi rơm rạ đã được
làm ướt theo các cách trên để róc nước hoàn toàn (12-24 giờ) bắt đầu chất đống
ủ và tiến hành đảo ủ theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quá trình
đảo ủ nguyên liệu rơm rạ (compost) và các công đoạn nuôi trồng nấm mỡ.
- Quá trình ủ đống, đảo nguyên liệu và bổ sung hoá chất được tiến hành cụ thể như sau:
+ Sàn đống ủ có kệ lót cách mặt đất 15 - 20cm. Đống ủ ban đầu có kích thước: Rộng 1,5 - 1,6m; cao 1,6 - 1,8m; chiều dài tuỳ theo lượng rơm rạ (1 tấn có chiều dài 4,5m) cứ 1,5m có 1 cọc thông khí. Thể tích ban đầu của đống ủ là khoảng 13 - 14m3/ 1 tấn rơm rạ. Làm theo cách này ta không phải cân..
- Quá trình ủ đống, đảo nguyên liệu và bổ sung hoá chất được tiến hành cụ thể như sau:
+ Sàn đống ủ có kệ lót cách mặt đất 15 - 20cm. Đống ủ ban đầu có kích thước: Rộng 1,5 - 1,6m; cao 1,6 - 1,8m; chiều dài tuỳ theo lượng rơm rạ (1 tấn có chiều dài 4,5m) cứ 1,5m có 1 cọc thông khí. Thể tích ban đầu của đống ủ là khoảng 13 - 14m3/ 1 tấn rơm rạ. Làm theo cách này ta không phải cân..
- Khi chất đống ủ
trộn đều đạm Ure với đạm sulfat amon (SA) cứ 1 lớp rơm rạ cao 30cm thì rắc 1
lớp phân đạm cho đều làm sao khi đủ rơm thì vừa hết đạm.
- Các lần đảo rơm sau
theo thời gian và thứ tự bổ sung hoá chất như sơ đồ trên và tuân thủ các nguyên
tắc.
+ Đảo đều nguyên liệu từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, rũ tơi rơm khi đảo
ủ.
+ Ngày đầu có thể nén chặt rơm rạ, các lần đảo tiếp sau, khi chất rơm tuyệt đối không được nén để tạo độ thông thoáng cho đống ủ lên men tốt.
+ Ngày đầu có thể nén chặt rơm rạ, các lần đảo tiếp sau, khi chất rơm tuyệt đối không được nén để tạo độ thông thoáng cho đống ủ lên men tốt.
+ Mỗi lần đảo đều kiểm tra độ ẩm và chỉnh độ ẩm của rơm thật chuẩn. Nếu thấy
nguyên liệu khô (vắt chặt không có nước chảy ra tay) cần bổ sung thêm nước,
nguyên liệu quá ướt (vắt rơm có nước chảy thành dòng) cần phơi lại, sau đó mới
ủ đống. Thường phải bổ sung thêm nước từ lần đảo thứ 3 trở đi.
+ Trời gió mạnh hoặc quá lạnh cần che phủ xung quanh đống ủ để giữ nhiệt và giữ
ẩm trong đống ủ.
+ Nếu trời mưa to, ủ đống ngoài trời cần tạo mái đống ủ có hình mui rùa hoặc
che đậy ở nóc để tránh nước mưa thấm sâu vào trong đống ủ.
+ Nền (đáy) đống ủ phải thoát nước tốt.
+ Nhiệt độ đống ủ phải đạt 75 - 80oC trong khoảng từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7
sau khi ủ đống.
+ Khi kết thúc quá trình ủ đống (giai đoạn lên men chính) 14 - 16 ngày, compost
đạt tiêu chuẩn: độ ẩm 65 - 70%, pH= 7 - 7,5, rơm rạ có màu nâu hạt dẻ, còn
nguyên hình sợi rơm, có mùi dễ chịu và không còn mùi khai của amoniac. Nắm
chặt, nguyên liệu dính vào nhau như cục đất sét, khi gỡ ra không bị nát vụn.
3.3. Lên men phụ và vào luống:
* Lên men phụ: Sau
thời gian ủ đống 14 ngày và tiến hành đảo nguyên liệu 4 lần gọi là giai đoạn
lên men chính, vi sinh vật trong đống ủ vẫn tiếp tục hoạt động và sinh nhiệt,
gây mùn hoá. Lúc này ta phải tạo đống ủ thấp bằng một nửa đống cũ để nhiệt độ đống
ủ giảm xuống, đây gọi là giai đoạn lên men phụ kéo dài 5 - 7 ngày. Khi nhiệt độ
giảm xuống khoảng 28 – 300C ta tiến hành đưa compost vào luống.
* Vào luống: Rũ tơi
composts để bay hết hơi nóng, chỉnh độ ảm thật chuẩn (cầm một nắm rơm bóp chặt
có nước rỉ ra ở kẽ ngón tay), xếp rơm thành từng lớp đứng liên tiếp có độ dày
12- 14cm (lớp thứ nhất), có độ chặt tương đối, bề mặt bằng phẳng. Phủ tiếp lên
lớp thứ nhất một lớp rơm rạ đã ủ dày 3-4cm, ấn chặt vừa phải, (lớp thứ hai) lớp
này để cấy giống nấm cho dễ. Trung bình 1 tấn rơm rạ khô sau khi vào luống được
diện tích từ 40- 45m2.
- Trong nhà hoặc lán
trồng nấm phải được vệ sinh nền tường, mái trước khi vào luống.
- Nếu là nền gạch,
nền xi măng không cần lót nilon cần tưới ướt nền trước khi vào luống. Nền đất
và trên giàn giá cần lót nilon (loại tái sinh) có thể đục lỗ để thoát nước.
- Bố trí luống nấm
phải để lối đi và thuận tiện cho việc chăm sóc, thu hái nấm.
- Dùng vật liệu bằng
gỗ, nan tre làm gờ chắn luống nấm hoặc đơn giản là dùng bùn để trát vào gờ luống
để định hình và giữ ẩm cho luống nấm.
3.4. Cấy giống nấm mỡ:
- Giống nấm mỡ đựng
trong túi nilon hoặc chai, trọng lượng trung bình khoảng 0,5kg/ 1 túi. Trước
khi cấy giống cần:
+ Kiểm tra nhiệt độ luống nấm giảm xuống 280C trở xuống thì mới được cấy giống.
Nếu mặt luống bị khô thì tưới nước (0,2- 0,3 lít/m2) trước khi cấy giống ít
nhất từ 4 - 6giờ.
+ Kiểm tra thật kỹ xem giống có bị nhiễm bệnh không. Túi giống bị chua hoặc mốc
xanh, đen phải bỏ.
- Xé bao nilon, dùng
tay bẻ tơi các hạt giống rắc đều trên bề mặt. Lượng giống cho 1m2
khoảng 300 - 350 gam. Lấy tay hoặc cào sắt (cào 5 răng dài 5cm) giũ nhẹ để các
hạt giống lọt xuống dưới lớp rơm rạ từ 3- 4cm (lớp thứ hai khi vào luống). Sau
đó dùng 1 lớp compost dày 2cm rắc đều, dùng tay hoặc mảnh gỗ ấn nhẹ, lấp phẳng
bề mặt luống nấm, đảm bảo cho hạt giống đều nằm chìm và tiếp xúc tốt với
compost trồng nấm. Nếu cẩn thận và làm ít có thể dùng giấy báo đậy kín bề mặt
luống nấm. Để sau 3-4 ngày bắt đầu tưới nước trực tiếp trên mặt báo (Không để
đọng nước trên mặt báo phủ) hoặc tưới nhẹ lên lớp rơm rạ bảo vệ giống để giữ
ẩm. Sau 12-15 ngày kể từ lúc cấy giống thì phải phủ đất.
3.5. Đất phủ và cách phủ đất:
- Nấm mỡ bắt buộc
phải có lớp đất phủ trên bề mặt luống mới có nấm mọc.
- Đất phủ có kết cấu
viên, dạng đất thịt nhẹ giàu chất hữu cơ (thường lấy ở tầng canh tác lúa, rau
màu) có pH= 7 - 7,5; kích thước từ 0,3 - 1,5cm.
* Cách làm và phủ
đất:
- Dùng cuốc, xẻng đập
nhỏ đất, lấy sàng có nan thưa lắc nhẹ loại bỏ đất bột, vụn. Phần còn lại bằng
hạt ngô trở lên (kích thước 0,3- 1,5cm) là được, đem phơi khô.
- Lượng đất phủ dày
2,0- 2,5cm; cần khoảng 25- 30 kg đất/ 1m2 luống nấm.
- Trước khi phủ đất
thu nhặt lớp giấy báo, kiểm tra sợi nấm mọc đều trên mặt luống và ăn sâu vào cơ
chất có màu trắng bạc như tàn thuốc lá là đủ điều kiện phủ đất. Nếu mặt luống
khô, tưới nhẹ cho ẩm đều. Đổ nhẹ đất viên trên mặt luống, dùng tay hoặc bàn gạt
san đều đất dày 2,5-3cm.
- Sau khi phủ đất
xong trong khoảng 3- 4 ngày tưới nước nhiều lần đủ ẩm toàn bộ lớp đất phủ (bẻ
viên đất không còn lõi trắng). Các ngày tiếp theo giảm lượng nước tưới, duy trì
độ ẩm liên tục như đất gieo hạt rau cho tới khi nấm mọc (sau khi phủ đất
15- 20 ngày có nấm mọc bói) .
3.6.
Chăm sóc và thu hái nấm mỡ:
- Nấm mỡ mọc quả thể
rất phụ thuộc vào thời tiết, nhiệt độ các đợt gió mùa đông bắc. Mùa đông trời
rét đậm, rét dài thì nấm mọc liên tục.
- Khi thấy nấm bắt
đầu xuất hiện (có các chấm nhỏ màu trắng như hạt ngô) điều chỉnh lượng nước
tưới theo mật độ và độ lớn cây nấm. Nấm ra càng nhiều, càng lớn thì lượng nước
tưới cũng nhiều hơn. Tuỳ thuộc vào thời gian và thời tiết (nhiệt độ trong ngày,
độ ẩm, tốc độ gió) để điều chỉnh hệ thống cửa ra vào và lượng nước tưới. Khi
tưới phải tưới ngửa vòi hoặc cao vòi cách mặt luống (40- 50cm) để không
bị nát đất và ẩm đều, tưới đi tưới lại 2, 3 lần làm sao chỉ ẩm đất, không có
nước thấm nhiều xuống lớp giá thể. Giai đoạn chăm sóc, thu hái cần chú ý:
* Thông thoáng:
* Thông thoáng:
- Thời kỳ nuôi sợi
không cần nhiều O2 tự nhiên nên chỉ cần thông khí vừa phải. ngày mở cửa 2 lần,
mỗi lần 15- 20 phút.
- Thời kỳ nấm mọc sử
dụng nhiều O2 tự nhiên, nồng độ CO2 trong phòng trồng nấm lên cao. Tăng cường
mở cửa nhiều lần trong ngày để điều hoà không khí.
- Khi nhiệt độ không
khí thấp hơn nhiệt độ trong phòng cần thông thoáng để nhiệt độ phòng giảm xuống
nhanh hơn. Khi nhiệt độ trong phòng tăng cao, thông thoáng kém thì nấm phát
triển nhanh, cuống dài và nhỏ, mũ bé và nhanh nở xoè ô.
- Tưới nước không đủ
(quá khô) nấm không lên khỏi mặt đất, cuống rất ngắn “gốc” phình to dạng củ, mũ
lớn hơn bình thường, mọc lác đác.
- Độ ẩm không khí quá
cao (độ ẩm bão hoà 100%) kéo dài liên tục nhiều ngày thì trong quả nấm có những
vết đen, vi sinh vật và sâu bệnh xuất hiện nhiều.
- Lượng O2 không đủ
nấm có dạng mũ bé, cuống to.
- Trao đổi không khí
quá mạnh (gió lùa nhiều) nấm có màu vàng, mũ xuất hiện vảy.
* Hái nấm:
- Hái nấm trước khi
nấm rách màng bao, đường kính mũ nấm từ 2,0-6,0cm, thích hợp cho việc bán tươi
và chế biến.
- Dùng tay nhẹ nhàng
xoáy quả nấm, lấy hết phần gốc và cuống nấm, dùng dao cắt ngang cuống nấm dài
0,5- 1cm. Nếu nấm mọc thành cụm thì nên hái cả cụm, tránh hái tỉa.
- Dừng tưới nước
trước khi hái từ 4- 5giờ để nấm không bị bẩn. Sau khi hái xong cần phải
nhặt bỏ các gốc, “rễ già”, nấm nhỏ bị chết, bổ sung thêm đất phủ vào những nơi
bị hao hụt do thu hái. Sau đó tưới nước như bình thường.
- Quá trình thu hái,
chăm sóc kéo dài khoảng 2,0- 2,5 tháng thì kết thúc, nếu trời hết lạnh hoặc cơ
chất hết dinh dưỡng thì hết nấm.
3.7. Chế biến nấm:
Tùy theo nhu cầu của khách hàng để tiến hành việc thu hái, chế biến nấm. Trước hết cần lựa chọn nấm: hái những cây nấm không bị sâu bệnh, dị dạng và chưa nở ô, cắt sạch phần cuống có bám đất, để lại chiều dài cuống khoảng 1- 1,5cm.
* Tiêu thụ tươi:
Để nấm vào túi PE, buộc chặt miệng túi chuyển đến nơi tiêu thụ. Quá trình vận chuyển cần tránh va chạm cơ học để nấm không bị bầm giập. Muốn bảo quản lâu cần để ở nhiệt độ lạnh 5-8 độ C. Thời gian giữ được từ 24 - 72 giờ.
* Nấm muối:
- Rửa nấm: Hái nấm xong, cắt cuống (như trên) rồi thả vào chậu nước lạnh, rửa sạch.
- Đun sôi nước: Thả nấm vào trần 5-7 phút, phải ấn nấm chìm liên tục trong nước sôi, nếu để nấm nổi bề mặt, nấm sẽ có màu đen loang lổ, sau đó vớt ra thả ngay và nước lạnh.
- Vớt nấm đã trần cho vào túi nilong, chum (vại), cứ 1kg nấm cho thêm vào 1,2 lít dung dịch muối bão hòa, 0,3kg muối khô, 3g axit xitric. Buộc túi hoặc đậy nắp, phía trên dùng vỉ tre ấn chìm nấm trong dung dịch muối. Sau 15 ngày nấm ổn định nồng độ muối (đạt 22%) có màu vàng nhạt, pH=4, nấm có mùi thơm, dung dịch trong suốt là đạt yêu cầu.
3.8. Sâu bệnh hại nấm:
* Chuột: Chúng đào bới, xáo trộn luống nấm, thời kỳ cấy giống nên phải tiêu diệt nếu không chúng sẽ ăn các hại giống nấm vừa cấy, làm giảm năng suất. Nên đánh thuốc diệt chuột liên tục, nhất là giai đoạn cấy giống.
* Nấm dại (nấm mực): Sống cạnh tranh chất dinh dưỡng của nấm. Loại này không gây ảnh hưởng lớn đến nấm. Nguyên nhân xuất hiện do độ ẩm nguyên liệu quá cao, cần nhặt sạch và điều chỉnh độ ẩm thích hợp.
* Mốc nâu, mốc xanh: Bệnh xuất hiện do độ ẩm không khí cao, sau cách đợt thu hái không tiến hành vệ sinh tốt (chưa nhặt sạch các gốc rễ, nấm nhỏ bị chết). Loại bệnh này rất nguy hiểm, là loại nấm ký sinh cần phải nhặt sạch các mầm bệnh. Dùng formalin 5% phun vào các vùng bị bệnh.
* Ruồi nấm: Xuất hiện khi độ ẩm không khí cao, phòng thiếu thông thoáng, môi trường xung quanh và trong nhà trồng vệ sinh không tốt.
* Vi rút và các loại vi khuẩn: tạo các đốm đen trên cây nấm. Nguyên nhân là do nguyên liệu ủ không đảm bảo, còn nhiều mầm bệnh trong nguyên liệu. Môi trường trồng không sạch sẽ, nguồn đất phủ không được khử trùng...Dùng chlorine hòa với nước phung trực tiếp lên luống nấm.( dúng 250ml chlorine 5% hòa với 100 lít nước).
Tẩy trùng đất phủ: 1m3 đất phủ cần 1 lít fomandehyl hòa tan trong nước thấm đều đất, trùm kín nilong 2 ngày, sau đó bỏ ra đảo đều là được.
Nấm muối có màu vào, mùi thối, khó chịu do nồng độ muối không đảm bảo, nguồn nước quá bẩn, cần bổ sung thêm muối và tăng lượng axit nitric.
Bệnh quả thể nấm dị dạng: Nguyên nhân do các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, không khí) thay đổi đột ngột. Do giống nấm bị thoái hóa. Biểu hiện nấm không hình thành quả thể đầy đủ.
3.9. Năng suất:
Trung bình 1000kg nguyên liệu rơm rạ khô sau khi kết thúc đợt nuôi trồng từ 15/10 đến 15/4 năm sau cho thu hoạch 200 - 300kg nấm tươi. Tỉ lệ nấm tươi sau khi muối đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là (2:1,1). Ngoài nấm tươi ra, người nuôi trồng còn thu 1200-1400kg phế phụ thải để làm phân bón rất tốt.
3.7. Chế biến nấm:
Tùy theo nhu cầu của khách hàng để tiến hành việc thu hái, chế biến nấm. Trước hết cần lựa chọn nấm: hái những cây nấm không bị sâu bệnh, dị dạng và chưa nở ô, cắt sạch phần cuống có bám đất, để lại chiều dài cuống khoảng 1- 1,5cm.
* Tiêu thụ tươi:
Để nấm vào túi PE, buộc chặt miệng túi chuyển đến nơi tiêu thụ. Quá trình vận chuyển cần tránh va chạm cơ học để nấm không bị bầm giập. Muốn bảo quản lâu cần để ở nhiệt độ lạnh 5-8 độ C. Thời gian giữ được từ 24 - 72 giờ.
* Nấm muối:
- Rửa nấm: Hái nấm xong, cắt cuống (như trên) rồi thả vào chậu nước lạnh, rửa sạch.
- Đun sôi nước: Thả nấm vào trần 5-7 phút, phải ấn nấm chìm liên tục trong nước sôi, nếu để nấm nổi bề mặt, nấm sẽ có màu đen loang lổ, sau đó vớt ra thả ngay và nước lạnh.
- Vớt nấm đã trần cho vào túi nilong, chum (vại), cứ 1kg nấm cho thêm vào 1,2 lít dung dịch muối bão hòa, 0,3kg muối khô, 3g axit xitric. Buộc túi hoặc đậy nắp, phía trên dùng vỉ tre ấn chìm nấm trong dung dịch muối. Sau 15 ngày nấm ổn định nồng độ muối (đạt 22%) có màu vàng nhạt, pH=4, nấm có mùi thơm, dung dịch trong suốt là đạt yêu cầu.
3.8. Sâu bệnh hại nấm:
* Chuột: Chúng đào bới, xáo trộn luống nấm, thời kỳ cấy giống nên phải tiêu diệt nếu không chúng sẽ ăn các hại giống nấm vừa cấy, làm giảm năng suất. Nên đánh thuốc diệt chuột liên tục, nhất là giai đoạn cấy giống.
* Nấm dại (nấm mực): Sống cạnh tranh chất dinh dưỡng của nấm. Loại này không gây ảnh hưởng lớn đến nấm. Nguyên nhân xuất hiện do độ ẩm nguyên liệu quá cao, cần nhặt sạch và điều chỉnh độ ẩm thích hợp.
* Mốc nâu, mốc xanh: Bệnh xuất hiện do độ ẩm không khí cao, sau cách đợt thu hái không tiến hành vệ sinh tốt (chưa nhặt sạch các gốc rễ, nấm nhỏ bị chết). Loại bệnh này rất nguy hiểm, là loại nấm ký sinh cần phải nhặt sạch các mầm bệnh. Dùng formalin 5% phun vào các vùng bị bệnh.
* Ruồi nấm: Xuất hiện khi độ ẩm không khí cao, phòng thiếu thông thoáng, môi trường xung quanh và trong nhà trồng vệ sinh không tốt.
* Vi rút và các loại vi khuẩn: tạo các đốm đen trên cây nấm. Nguyên nhân là do nguyên liệu ủ không đảm bảo, còn nhiều mầm bệnh trong nguyên liệu. Môi trường trồng không sạch sẽ, nguồn đất phủ không được khử trùng...Dùng chlorine hòa với nước phung trực tiếp lên luống nấm.( dúng 250ml chlorine 5% hòa với 100 lít nước).
Tẩy trùng đất phủ: 1m3 đất phủ cần 1 lít fomandehyl hòa tan trong nước thấm đều đất, trùm kín nilong 2 ngày, sau đó bỏ ra đảo đều là được.
Nấm muối có màu vào, mùi thối, khó chịu do nồng độ muối không đảm bảo, nguồn nước quá bẩn, cần bổ sung thêm muối và tăng lượng axit nitric.
Bệnh quả thể nấm dị dạng: Nguyên nhân do các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, không khí) thay đổi đột ngột. Do giống nấm bị thoái hóa. Biểu hiện nấm không hình thành quả thể đầy đủ.
3.9. Năng suất:
Trung bình 1000kg nguyên liệu rơm rạ khô sau khi kết thúc đợt nuôi trồng từ 15/10 đến 15/4 năm sau cho thu hoạch 200 - 300kg nấm tươi. Tỉ lệ nấm tươi sau khi muối đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là (2:1,1). Ngoài nấm tươi ra, người nuôi trồng còn thu 1200-1400kg phế phụ thải để làm phân bón rất tốt.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét