1 Tổng quan về nấm Linh Chi
Hình 1: Nấm Linh
Chi
Linh chi là vị thuốc quý đã được loài người
nghiên cứu sử dụng từ lâu đời. Trong sách "Thần nông bản thảo" - một dược thư cổ
của Trung Quốc cách đây hơn 2.000 năm cũng ghi lại khá nhiều tác dụng chữa bệnh
của linh chi. Linh chi còn có nhiều tên khác như thuốc Thần tiên, nấm Trường
thọ, cỏ Trường sinh v.v... Xưa kia linh chi chỉ được khai thác trong thiên nhiên
nên nó là loại thuốc quý, hiếm và rất đắt tiền. Giá một lạng linh chi còn đắt
hơn một lạng vàng ròng nên chỉ dành để tiến vua, chúa hoặc bán cho những người
giàu có.
Linh chi (Ganoderma) có chu trình
sống giống các loại nấm đảm khác, vị trí phân loại như
sau:
Ngành: Eumycote
- Bộ: Polyporales
- Chi: Ganoderma
- Lớp:
Basidiomycetes
- Họ:
Ganodermataceae
- Loài: Ganoderma
lucidum
Có 2 nhóm lớn là: Cổ linh chi và linh
chi.
Cổ linh chi:
Là các loài nấm gỗ không cuống (hoặc
cuống rất ngắn) có nhiều tầng (mỗi năm thụ tầng lại phát triển thêm một lớp mới
chồng lên). Mũ nấm hình quạt, màu từ nâu xám đến đen sẫm, mặt trên sù sì thô
ráp. Chúng sống ký sinh và hoại sinh trên cây gỗ trong nhiều năm (đến khi cây
chết thì nấm cũng chết). Vì vậy các nhà bảo vệ thực vật xếp cổ linh chi vào nhóm
các tác nhân gây hại cây rừng, cần khống chế. Cổ linh chi mọc hoang từ đồng bằng
đến miền núi ở khắp nơi trên thế giới. Trong rừng rậm, độ ẩm cao, cây to thì nấm
phát triển mạnh, tán lớn. Ở Việt Nam đã phát hiện trong rừng sâu Tây
Nguyên có những cây nấm cổ linh chi lớn, có cây tán rộng tới hơn 1 mét, nặng hơn
40kg.
Tên khoa học: Ganoderma applanatum
(Pers) Past. Cổ linh chi có hàng chục loài khác nhau.
Hình 2: Cổ linh
chi
Linh chi:
Là các loài nấm gỗ mọc hoang ở những
vùng núi cao và lạnh ở các tỉnh Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Ðông (Trung Quốc).
Nấm có cuống, cuống nấm có màu (mỗi loài có một màu riêng như nâu, đỏ vàng, đỏ
cam). Thụ tầng màu trắng ngà hoặc màu vàng. Mũ nấm có nhiều hình dạng, phổ biến
là hình thận, hình tròn. Mặt trên bóng. Nấm hơi cứng và
dai.
Tên khoa học: Ganoderma lucidum
(Leyss ex Fr) Kart (Linh chi có rất nhiều loài khác nhau). Sách Bản thảo cương
mục (in năm 1595) của Lý Thời Trân, đại danh y Trung Quốc đã phân loại linh chi
theo màu sắc thành 6 loại, mỗi loại có công dụng chữa bệnh khác
nhau:
- Loại có màu vàng gọi là Hoàng chi
hoặc Kim chi.
- Loại có màu xanh gọi là Thanh
chi.
- Loại có màu trắng gọi là Bạch chi hay
Ngọc chi.
- Loại có màu hồng, màu đỏ gọi là Hồng
chi hay Ðơn chi hoặc Xích chi.
- Loại có màu đen gọi là Huyền chi hay
Hắc chi.
- Loại có màu tím gọi là Tử
chi.
Ði đầu về trồng nấm Linh Chi là các
nhà khoa học Nhật Bản, năm 1972 đã trồng thí nghiệm nấm linh chi đạt kết quả
tốt. Sau đó là Hàn Quốc, Trung Quốc. Ở Việt Nam ,
Viện Dược liệu - Hà Nội đã trồng nấm linh chi (giống Trung Quốc) thành công vào
năm 1978. Chín năm sau, năm 1987, các nhà khoa học thuộc Ðại học khoa học tự
nhiên đã chọn được giống linh chi mọc hoang ở rừng núi Lâm Ðồng để nhân giống và
đưa vào sản xuất tại trại trồng nấm linh chi của Xí nghiệp Dược phẩm TW 24, đạt
kết quả tốt vào năm 1988.
Ngày nay nhiều nước trên thế giới như
Thái Lan ,
Malaysia , Mỹ...
đã sản xuất nấm cùng các chế phẩm linh chi làm thuốc và thực phẩm dưỡng
sinh.
Chất lượng của nấm linh chi trồng phụ
thuộc vào 2 điều kiện chính, đó là:
- Giống thuần chủng, không bị lai
tạp.
Thành phần dinh dưỡng và điều kiện
môi trường cho nấm sinh sản phát triển (đây là bí mật công nghệ của từng nhà sản
xuất). Có 2 loại giá thể chính để trồng nấm linh chi là mạt cưa và khúc gỗ chôn
xuống đất. Ở Việt Nam người ta trồng linh chi bằng mạt
cưa cao su đựng trong túi.
Ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản
người ta trồng linh chi bằng khúc gỗ chôn dưới đất, sau 6-7 tháng sẽ thu hoạch,
nấm có đường kính lớn, mỗi cây nấm sau khi sấy khô đạt 200-400g (loại
to).
Cách đây hàng ngàn năm, nấm Linh Chi
đã được dùng để làm thuốc. Các sách dược thảo của nhiều triều đại ở Trung Quốc
đều ghi nhân Linh Chi được sử dụng làm thuốc từ lâu đời. Sách “Thần nông bản
thảo” đã nói: “Linh chi là thuốc kết tinh được cái quý của mây mưa trên núi cao,
cái tinh của ngũ hành trong ngày đêm mà khoe năm sắc nên có thể giữ sức khoẻ cho
các bậc đế vương”. Đến đời Minh (năm 1590) trong sách “Bản thảo cương mục”, tác
giả Lý Thời Trân đã mô tả 6 loại Linh Chi và khái quát tác dụng trị liệu của
Linh Chi: Linh Chi đều có tính bình, không độc, có tác dụng làm tăng trí nhớ,
dưỡng tim, bổ gan khí, an thần, chữa trị tức ngực. Với hệ hô hấp có tác dụng ích
phổi, thông mũi, chữa ho nghịch hơi, an thần, ích tỳ khí. Nấm Linh Chi còn có
các tác dụng chữa trị chứng bí tiểu, bổ thận khí, chữa trị đau nhức khớp xương,
gân cốt… Nấm Linh Chi được Lý Thời Trân coi như một loại thần dược: Ăn nhiều lần
cơ thể nhẹ đi mà không già, sống lâu như thần tiên.
Theo cách diễn đạt truyền thống của
người phương Đông, các tác dụng cụ thể của nấm Linh Chi được tập hợp vào những
mặt tác dụng lớn như sau:
- Kiện não (làm sáng suốt, minh
mẫn)
- Bảo can (bảo vệ
gan)
- Cường tâm (thêm sức cho
tim)
- Kiện vị (củng cố dạ dày và hệ tiêu
hoá)
- Cường phế (thêm sức cho phổi, hệ hô
hấp)
- Giải độc (giải toả trạng thái nhiễm
độc)
- Giải cảm (giải toả trạng thái dị
cảm)
- Trường sinh (sống lâu tăng tuổi
thọ).
Qua phân tích các hoạt chất về mặt
dược tính, dược lý và sử dụng nấm Linh Chi, người ta thấy Linh Chi có tác dụng
rất tốt với các bệnh:
* Đối với bệnh về hệ tim
mạch:
Nấm Linh Chi có tác dụng điều hoà, ổn định huyết áp. Khi dùng cho người
huyết áp cao, nấm Linh Chi không làm tăng mà làm giảm bớt, dùng nhiều thì huyết
áp ổn định. Đối với những người suy nhược cơ thể, huyết áp thấp thì nấm Linh Chi
có tác dụng nâng huyết áp lên gần mức dễ chịu nhờ cải thiện, chuyển hoá dinh
dưỡng. Đối với bệnh nhiễm mỡ, xơ mạch, dùng nấm Linh Chi có tác dụng giảm
cholesterol toàn phần, làm tăng nhóm lipoprotein tỷ trọng cao trong máu, làm
giảm hệ số sinh bệnh. Nấm Linh Chi làm giảm xu thế kết bờ của tiểu cầu, giảm
nồng độ mỡ trong máu, giảm co tắc mạch, giải toả cơn đau thắt
tim.
* Đối với các bệnh về hô hấp:
Nấm Linh Chi
đem lại kết quả tốt, nhất là với những ca điều trị viêm phế quản dị ứng, hen phế
quản tới 80% có tác dụng giảm và làm nhẹ bệnh theo hướng khỏi
hẳn.
* Đối với hệ tuần
hoàn:
Ổn định huyết áp, lọc sạch máu tăng cường tuần hoàn máu, giảm mệt mỏi, hỗ
trợ thần kinh, chống đau đầu và tứ chi, điều hoà kinh nguyệt, làm da dẻ hồng hào
chống các bênh ngoài da như dị ứng, trứng cá
Ngoài ra nấm Linh Chi còn có tác dụng
tốt tới các bệnh gan mãn tính mới
phát, nâng cao chức năng gan, ổn định đường huyết ở những người bị
bệnh đái tháo đường. Các tác giả ở Đài Loan dùng Linh Chi trồng trên gỗ long não
điều trị ung thư cho kết quả rất tốt
- khối u tiêu biến hoàn toàn. Trên cơ sở nguyên lý hiệu dụng là do nấm Linh Chi
làm tăng và khôi phục hệ miễn dịch. Hàng năm doanh thu của các chế phẩm chống
ung thư điều chế từ các loài nấm Linh Chi ở Đài Loan đạt trên 350 triệu
USD.
Để sử dụng nấm Linh Chi chữa bệnh, người ta thường dùng một số cách như sau:
Để sử dụng nấm Linh Chi chữa bệnh, người ta thường dùng một số cách như sau:
Cách sử dụng:
* Thái lát:
(Cách này phổ biến
nhất)
Cho 50g Linh chi và 1 ít Cam Thảo vào ấm đun
cùng với 1L nước, đun khoảng 2~3 phút rồi tắt lửa. Để ngâm như vậy trong vòng 5
phút rồi đun tiếp khoảng 30 phút bằng lửa nhỏ đến khi nước cạn còn khoảng 0.8L
thì ta được nước đầu tiên. Sử dụng lại 2 - 3 lần.
Sau khi được nước 3 lấy bã Linh chi
phơi khô đun lấy nước 4 hoặc dùng để tắm, rất tốt cho da và tóc.
* Nghiền thành bột:
Cho vào tách hãm bằng nước thật sôi
trong 5 phút sau đó uống hết cả bã.(Có thể làm người dùng hơi khó chịu vì sự
không tan của nó, nhưng đây là cách dùng
tốt nhất theo khuyến cáo của các nhà
khoa học.)
* Ngâm rượu:
Thái lát trước khi ngâm. Ngâm 100g
Linh Chi với 2L rượu loại ngon. Sau 1 tháng có thể sử dụng. Nên ngâm kết hợp với
Táo tàu và mật ong để tăng hương vị.
2 Tình hình phát triển trồng nấm
trên thế giới:
Hiện nay, bên cạnh một số nấm được
nuôi trồng truyền thống lâu đời ở châu Âu, châu Mỹ, còn nhiều loại nấm ăn được
nghiên cứu nuôi trồng làm thực phẩm. Nếu tính về sản lượng thì tốc độ tăng hàng
năm. Nấm trồng không những là sản phẩm của các nước nông nghiệp, mà còn phát
triển ở các nước công nghiệp.. Ở châu Âu, nghệ trồng nấm đã trở thành một ngành
công nghiệp lớn được cơ giới hóa toàn bộ nên năng suất và sản lượng rất cao. Năm
1983, Pháp sản xuất được 200.000 tấn nấm tươi nhưng chỉ có khoảng 6000 người
trồng.
Nhật là nước có sản lượng nấm cao
nhất thế giới. Ở châu Á, trồng nấm còn mang tính thủ công nhiều, năng suất không
cao, chủ yếu sản xuất ở qui mô gia đình với số đông nên tổng sản lượng lớn. Chỉ
trong 10 năm, diện tích trồng nấm của Đài Loan tăng hơn 900 lần, từ 13.200
m2 năm 1957 đến hơn 12 triệu m2 năm 1967. Trung Quốc bắt
đầu trồng nấm từ năm 1973, nhưng đến năm 1980 diện tích đã đạt 20 triệu
m2 và sản lượng đứng hàng thứ 3 trên thế giới.
Nhìn chung nghề trồng nấm phát triển
mạnh và rộng khắp, nhất là trong 20 năm trở lại đây.
3 Tình hình phát triển nấm ở Việt
Nam và tiềm
năng:
Sự phát triển của nghề trồng nấm có
nhiều nguyên nhân, như sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công
nghệ thông tin và sự hình thành các hiệp hội nấm. Tuy nhiên vấn đề chủ yếu vẫn
là hiệu quả của nấm trồng. Một ngành nuôi trồng chỉ sử dụng nguyên liệu chính là
phế liệu của ngành nông, công nghiệp như bã mía, bông thải, mạt cưa… ít bị cạnh
tranh bởi những ngành khác, nhưng sản phẩm lại là nguồn thực – dược phẩm rất
quí.
Ngành nuôi trồng nấm hiện nay rất dễ
phát triển vì các lý do sau:
- Điều kiện thiên nhiên ưu đãi, nhất là
các tỉnh phía Nam . Chênh lệch nhiệt độ giữa tháng
lạnh và tháng nóng không nhiều lắm, nên có thể trồng nấm quanh năm. Điều kiện độ
ẩm cao thuận lợi cho nấm phát triển. Độ ẩm thấp nhất trung bình ở thành phố Hồ
Chí Minh cũng không nhỏ hơn 80%.
- Nguồn nguyên liệu dồi dào, mỗi năm
khai thác khoảng 3,5 triệu m3, nếu chế biến sản phẩm sẽ cung cấp
lượng mạt cưa khổng lồ cho ngành trồng nấm, chưa kể các phế liệu khác cũng chiếm
số lượng rất lớn như cùi bắp (cùi ngô), bã mía, bông thải…
- Lực lượng lao động nhàn rỗi khá đông,
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp (chiếm 80% dân số cả nước), nếu tham gia
trồng nấm thì sản lượng sẽ rất lớn.
- Nhiều nơi có truyền thống trồng nấm
lâu đời như Bình Chánh (Tp HCM), Long An… hoặc đang phát triển nghề nấm như Cần
Thơ, Sóc Trăng, Long Khánh, Hóc Môn (Tp HCM)…bên cạnh một đội ngũ kỹ thuật được
rèn luyện trong thực tế ngày càng nhiều, sẽ là hạt nhân thúc đẩy phong trào
trồng nấm lan rộng.
- Ngành chế biến và xuất khẩu nấm đang
ở bước đầu với lợi nhuận tương đối, khả dĩ khuyến khích được người trồng
nấm.
Tóm lại, phát triển ngành trồng nấm ở
nước ta hiện nay là điều tất yếu. Nó không chỉ giải quyết vấn đề về lao động mà
còn đem lại của cải cho xã hội. Tuy nhiên để nghề trồng nấm nhanh chóng phát
triển ở nước ta, bên cạnh sự vận động theo nhu cầu xã hội, cần có nhiều đầu tư
về mặt khoa học như giống nấm, kỹ thuật nuôi trồng, vấn đề phòng bệnh, chế biến
sản phẩm, cung cấp thông tin cũng như huấn luyện kỹ thuật trồng nấm và nhất là
có chính sách ưu đãi cho người trồng nấm như cho vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế…
4 Tác dụng của nấm Linh
Chi
Không phải chỉ đến khi Tần Thủy Hoàng
phái ngự y Lư Sinh tìm thuốc trường sinh bất tử ở biển Đông thì linh chi mới có
mặt trong lịch sử y học. Từ nhiều ngàn năm nay, linh chi chiếm vị trí cao nhất
trong cổ thư Trung Quốc. Vì thế, nó không còn xa lạ với thầy thuốc bốn phương và
từ lâu đã có tên chính thức trong dược điển của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…
như một phương thuốc trị ung thư.
Không chỉ được trọng dụng ở Á Đông,
linh chi hiện là một trong những đề tài nghiên cứu và ứng dụng nóng bỏng của
ngành y dược Âu Mỹ. Y học phương Tây ắt hẳn phải có động cơ chính đáng khi tìm
về một dược liệu ở bên kia chân trời.
Tuy được xếp vào nhóm thuốc bổ thượng
phẩm của Trung y nhưng giá trị bổ dưỡng của linh chi không đồng nghĩa với tác
dụng kiến tạo kiểu “vai u thịt bắp” mà miếng thịt hay quả trứng mang lại. Đã có
không biết bao nhiêu người sử dụng linh chi cảm thấy khỏe hơn, ăn ngon, ngủ yên;
nhưng khi phân tích thì linh chi không có chất đạm cần thiết cho cấu trúc của tế
bào, không chứa chất cải thiện chức năng tiêu hóa, cũng không mang hoạt chất có
tính an thần. Khả năng nâng đỡ tổng trạng của linh chi là một thực tế không thể
chối cãi, không chỉ căn cứ vào cảm giác chủ quan của người bệnh, mà dựa trên các
tiêu chuẩn khoa học khách quan với định lượng rõ ràng, theo kết quả của hàng
trăm công trình nghiên cứu tại nhiều học viện từ Á sang Âu. Nếu vậy, linh chi
tác dụng theo cơ chế nào?
Cấu trúc độc đáo của linh chi chính
là thành phần khoáng tố vi lượng đủ loại, trong đó một số khoáng tố như
germanium, vanadium, crôm… Chúng đã được khẳng định là nhân tố quan trọng cho
nhiều loại phản ứng chống ung thư, dị ứng, lão hóa, xơ vữa, đông máu nội mạch,
giúp điều chỉnh dẫn truyền thần kinh, bảo vệ cấu trúc của nhân tế bào. Có căn
bệnh nào hiện nay thoát khỏi ảnh hưởng của các yếu tố bệnh lý vừa
kể?
Với
thành phần độc đáo như vừa tả, linh chi phục hồi cơ thể bằng cơ chế tác dụng
gián tiếp. Trái với chức năng cung cấp dưỡng
chất theo kiểu “thiếu thì bổ sung” của các loại thuốc bổ thông thường, linh chi
hữu ích cho cơ thể nhờ chọn con đường vận hành khéo léo và linh động hơn nhiều
qua kiểu đòn bẩy. Nó một mặt thanh lọc cơ thể toàn diện và đồng bộ qua tác dụng
lợi tiểu và lợi mật, một mặt kích thích nhiều chuỗi phản ứng sinh hóa trong cơ
thể nhờ vai trò xúc tác của khoáng tố vi lượng. Linh chi khéo léo đánh thức sức
đề kháng của cơ thể để từ đó điều chỉnh các rối loạn chức năng, làm lành các tổn
thương cơ quan, phục hồi hệ miễn dịch. Một khi hội đủ 3 điều kiện vừa kể thì cơ
thể rất khó bệnh, con người chậm già. Người xưa đâu có quá lời khi xếp linh chi
vào nhóm thuốc cải lão hoàn đồng!
Nếu dựa vào hàng trăm báo cáo chuyên
đề trong các hội nghị quốc tế về hiệu quả của linh chi thì vấn đề đặt ra “linh
chi có tác dụng hay không” quả là thừa. Nếu căn cứ vào con số bệnh nhân từ Đông
sang Tây đã và đang được điều trị rất hài lòng với linh chi, thì mọi thắc mắc về
cơ sở khoa học của linh chi không còn cần thiết. Nhưng có một điều chắc chắn:
Linh chi không phải là thần dược giúp sống lâu trăm tuổi, trẻ mãi không già như
quảng cáo hoặc ảo vọng của bạo chúa họ Tần. Trên nền tảng tri thức khoa học, nếu
biết cách áp dụng linh chi, đó sẽ là một trong các phương tiện hữu hiệu và an
toàn để tăng cường sức đề kháng cơ thể trong cuộc sống đầy căng thẳng và ô nhiễm
môi trường nặng nề của thế kỷ 21.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét