TỔNG QUAN VỀ NẤM BÀO NGƯ
1 Giới thiệu chung về nấm bào ngư
1.1 Phân loại
Nấm bào
ngư hay còn gọi là nấm sò xám, nấm dai, nấm trắng, nấm hương chân trắng có tên
khoa học là Pleurotus sp. Gồm nhiều loài thuộc:
Chi
Pleurotus
Họ
Pleurotaceae
Bộ
Agaricales
Lớp phụ
Hymenomycetidae
Lớp
Hymenomycetes
Ngành phụ
Basidiomycotina
Ngành nấm
thật – Eumycota
Giới nấm
Mycota hay Fungi
Nấm bào
ngư có tới 50 loài khác nhau. Tuy nhiên số loài nuôi trồng được không nhiều
khoảng 10 loài, gồm nhiều loại khác nhau về màu sắc và hình dạng, ít bị bệnh,
dễ trồng. Nấm có dạng hình phễu lệch, thân có 3 phần mũ, phiến và cuống nấm.
Ở Việt
Nam nấm bào ngư chủ yếu mọc hoang dại và thuộc nhóm nấm dị dưỡng, sống hoại
sinh, phá hoại gỗ và háo đường. Việc nuôi trồng loại nấm này bắt đầu từ 20 năm
trở lại đây, trên nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu từ
các ngành chức năng ở nhiều địa phương, nấm bào ngư trồng trên rơm rạ, bã mía,
mạt cưa…đều đạt hiệu suất sinh học cao (Lê Duy Thắng, 2001).
1.2 Một số nấm bào ngư
phổ biến
1.2.1 Bào ngư xám (Pleurotus sajor - caju)
Quả thể
phẳng, lúc già đi thi cong lại, mũ nấm có hình tròn, hình nữa tròn, hình thận,
đường kính 5 – 15 cm hay lớn hơn, màu trắng tro hay nâu xám, thịt nấm chắc vừa
phải, màu trắng. Cuống trắng muốt, dài 3 – 10 cm, gốc cuống có lông nhung. Lúc
đầu được nuôi trồng ở Ấn Độ, sau nhập vào Trung Quốc, Việt Nam,…Nấm ăn giòn,
ngọt, hơi dai (Nguyễn Lân Dũng, 2002).Ở nước ta nấm được trồng phổ biến ở miền
Nam, nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ.
1.2.2 Nấm bào ngư Đài
Loan hay bào ngư Nhật (Pleurotus cytidiosus)
Quả thể
to hoặc khá to, mũ nấm có đường kính khoảng 7 – 12 cm, có khi đến 35 cm, màu
nâu pha da cam – tro, trên bề mặt có vảy màu nâu đen, ở giũa có màu nâu khói
trắng, ăn ngon (Nguyễn Lân Dũng, 2002).
1.2.3 Nấm bào ngư tím (Pleurotus
ostreatus)
Quả thể
vừa hoặc lớn, mũ nấm có đường kính khoảng 5 – 21 cm, màu trắng, màu trắng tro,
trắng xanh nhưng khi mới nở có màu tím hay nâu xám. Cuống mọc xiên, ngắn hoặc
hầu như không có, dài không quá 1 – 3 cm. Gốc cuống có lông nhung. Vừa ăn ngon
lại vừa có giá trị dược liệu, còn được gọi là nấm hương chân ngắn (Nguyễn Lân
Dũng, 2002).
1.2.4 Nấm bào ngư trắng (Pleurotus
florodanus)
Ỏ nhiệt
độ thấp và đầy đủ ánh sáng quả thể có màu nâu gụ, ở nhiệt độ tương đối cao quả
thể có màu trắng sữa. Nhiệt độ tốt nhất để quả thể hình thành là 12 – 24 cm. Có
tính kháng tạp nấm, tạp khuẩn cao, sản lượng trên nguyên liệu đơn vị cao.
2 Đặc điểm sinh học
Theo Lê
Duy Thắng (2001), nấm bào ngư có đặc điểm chung là tai nấm có dạng phễu lệch,
phiến nấm mang bào tử kéo dài xuống đến chân, cuống nấm gần gốc có lớp lông
nhung nhỏ mịn. Tai nấm bào ngư khi còn non có màu sậm hoặc tối nhưng khi trưởng
thành có màu sáng hơn.
Chu kỳ
sống của nấm bắt đầu từ đảm bào tử hữu tính nảy mầm cho sợi tơ dinh dưỡng sơ
cấp và thứ cấp, “kết thúc” bằng việc hình thành cơ quan sinh sản là tai nấm.
Tai nấm lại sinh đảm bào tử và chu kỳ sống lại tiếp tục.
Quả thể
nấm phát triển qua nhiều giai đoạn: dạng san hô, dạng dùi trống, dạng phễu dạng
phễu lệch, dạng lá lục bình. Từ giai đoạn phễu sang dạng phễu lệch có sự thay
đổi về chất, còn từ giai đoạn phễu sang giai đoạn dạng lá lục bình có sự nhảy
vọt về khối lượng. Vì vậy, thu hái nấm bào ngư nên chọn lúc tai nấm vừa chuyển
sang dạng lá.
3 Các yếu tố ảnh hưởng
đến nấm bào ngư
Theo Lê
Duy Thắng (2001), các yếu tố ảnh hưởng đến nấm bào ngư là:
- Dinh
dưỡng: Ngoài các chất có trong nguyên liệu trồng cần bổ sung thêm nguồn đạm
(cám, ure), khoáng (super lân, vôi, amon phosphate). Việc bổ sung sẽ giúp sợi
nấm mọc nhanh hơn, sản lượng nấm cao hơn nhưng cũng dễ nhiễm các tạp khuẩn, tạp
nấm hơn.
- Nhiệt
độ: Nhiệt độ cần cho ủ tơ trong khoảng 20-30oC và để
nấm tạo quả thể là từ 15-25oc.
- Độ ẩm:
Trong thời kỳ tưới đón nấm, độ ẩm không khí không được dưới 70%, tốt nhất là
70-95%. Độ ẩm cơ chất tốt nhất là 50-60%.
- Ánh
sáng: Không cần nhiều ánh sáng, tốt nhất là 200-300 lux (ánh sáng phòng, ánh
sáng khuếch tán).
- pH: Khả
năng chịu đựng sự dao động của pH tương đối tốt. Thích hợp nhất là 5-6.
- Nồng độ
CO2: Quá trình nảy mầm của bào tử và tăng trưởng
của tơ nấm bào ngư cần nồng độ CO2 cao
(22%), nhưng khi cần ra nấm thì nồng độ CO2 phải
giảm và lượng oxy tăng lên.
- Độ
thông thoáng: Vừa phải và tránh gió lùa trực tiếp.
4 Giá trị dinh dưỡng của
nấm bào ngư.
Các loài
nấm bào ngư pleurotus sp. là nguồn thực phẩm bổ dưỡng quý giá với hàm
lượng protein cao tới 33 – 43% sinh khối khô, thành phần acid amin phong phú,
có đủ các acid amin không thay thế; bên cạnh đó là các thành phần gluxid,
vitamin, khoáng chất, acid béo (chủ yếu là acid không no, acid hữu cơ…). Nấm
bào ngư không chỉ ăn ngon mà còn giá trị dinh dưỡng cao, chứa đầy đủ các amino
acid. Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm ăn còn có nhiều đặc tính của biệt dược, có
khả năng phòng và chữa các bệnh như làm hạ huyết áp, chống béo phì, chữa bệnh đường
ruột. Nhiều nghiên cứu cho thấy nấm bào ngư cùng một số nấm ăn khác có tác dụng
chống ung thư. Bằng phương pháp khuyếch tán vào thạch nhóm nghiên cứu trường
Đại Học Khoa Học Tự Nhiên Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy nấm bào ngư Pleurotus
sajor – caju ở dạng bán cầu lệch đã có tác dụng ức chế 2 chủng vi khuẩn
Gram dương S. aureus và B. subtilis và 2 chủng Gram âm E. coli và
Pseudomonas aeruginosa.
Bảng 2.1: Tỉ lệ % so với chất khô
Tên nấm
|
Độ ẩm (W)
|
Protein
|
Lipid
|
Hydrat-cacbon
|
Tro
|
Calo (kCal)
|
Nấm mỡ
Nấm hương
Nấm sò
Nấm rơm
Trứng
|
89
92
91
90
74
|
24
13
30
21
13
|
8
5
2
10
11
|
60
78
58
59
1
|
8
7
9
11
0
|
381
392
345
369
156
|
Nguồn: Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002
Bảng 2.2: Hàm lượng vitamin
và chất khoáng
Đơn
vị tính: mg/100g chất khô
Tên nấm
|
Acid nicotinic
|
Riboflavin
|
Thimin
|
Acid ascobic
|
Iron
|
Canxi
|
Phos-pho
|
Nấm mỡ
Nấm hương
Nấm sò
Nấm rơm
Trứng
|
42,5
54,9
108,7
91,9
0,1
|
3,7
4,9
4,7
3,3
0,31
|
8,9
7,8
4,8
1,2
0,4
|
26,5
0
0
20,2
0
|
8,8
4,5
15,2
117,2
2,5
|
71
12
33
71
50
|
912
171
1348
677
210
|
Nguồn:
Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002
Nấm bào
ngư là một trong những loại nấm rất quen thuộc vì vừa ngon, vừa giòn, lại có
hương vị thơm. Không chỉ là một loại thực phẩm, nấm bào ngư còn là một vị
thuốc rất tốt cho sức khỏe, nấm không những ăn ngon, mà còn có nhiều tính chất
quí. Nếu tính về thành phần dinh dưỡng thì nấm bào ngư có nhiều chất đường,
thậm chí hơn cả nấm rơm, nấm mỡ, nấm đông cô. Về đạm và khoáng không thua gì
các loài nấm kể trên. Xét về năng lượng, nấm bào ngư lại cung cấp năng lượng ở
mức tối thiểu, thấp hơn đông cô, tương đương với nấm rơm, nấm mỡ, rất thích hợp
cho những người ăn kiêng (Nguyễn Hữu Đống và ctv, 2002).
Trong nấm
chứa 35–46% protein, cao hơn nấm hương, tổ thành acid amin hoàn toàn, chiếm 40
- 50% trong mấy loại acid amin cần thiết. Mặt khác nấm còn chứa các thành phần
glucid, vitamin, khoáng chất, acid béo (chủ yếu là acid no, acid hữu cơ) cần
thiết cho sức khỏe (Trần Văn Mão, 2004).
Ngoài ra
kết quả của các nhà nghiên cứu cho thấy trong nấm bào ngư có chất kháng sinh là
pleurotin, ức chế họat động của vi khuẩn Gram dương. Bên cạnh đó, Yoshioka và
cộng sự (1975) cũng tìm thấy polysaccharide có tính kháng ung bướu. Cả hai đều
có nguồn gốc là glucose. Trong đó chất được biết nhiều nhất, bao gồm có 69% β
(1-3) Glucan, 13% Galactose, 6% Mannose, 13% Uronic acid (Lê Duy Thắng, 2001).
Đồng thời
nấm còn chứa nhiều acid folic hơn cả thịt và rau rất cần cho những người bị
thiếu máu. Riêng về hàm lượng chất béo và tinh bột ở nấm thì thấp, phù hợp cho
những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, cao huyết áp.
5 Một số nghiên cứu
về nấm bào ngư
Trong
tình hình phát triển về khoa học công nghệ như hiện nay, có nhiều nghiên cứu
nấm bào ngư đã thực hiện thành công nhằm nâng cao chất lượng và phong phú về
chủng loại nấm như:
Nhân rộng
mô hình trồng nấm bào ngư trên cơ chất rơm và nghiên cứu tổ chức thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Đề tài thực hiện tại trung tâm ứng dụng tiến bộ Khoa Học và
Công Nghệ Vĩnh Long nhằm tận dụng tối đa phế thải trong nông nghiệp và phát
triển ngành trồng nấm (Võ Văn Long, 2008).
Đề tài
xây dựng mô hình sản xuất nấm bào ngư và trồng rau mầm từ phế liệu phi nấm. Đề
tài thực hiện tại huyện Phú Tân và thành phố Long Xuyên, mô hình nhằm tạo ra
phong phú sản phẩm rau sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phục vụ người
tiêu dùng và nâng cao thu nhập cho người dân tham gia trồng (Nguyễn Thanh Tùng, 2011).
Đề tài
nghiên cứu quy trình kỹ thuật trồng nấm bào ngư xen vườn cây ăn trái. Đề tài
được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
Vĩnh Long nhằm tận dụng cơ chất rơm để trồng nấm bào ngư cho hiệu quả kinh tế
cao hơn gấp 10 lần so với trồng nấm rơm (Trương Công Khả, 2004)
Kỹ thuật
trồng nấm bào ngư trên xơ dừa được nghiên cứu ứng dụng tại cù lao Tắc Cẩu (xã
An Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) từ đầu năm 2006. Kỹ thuật này không
chỉ góp phần giải quyết được tình trạng bụi xơ dừa gây ô nhiễm môi trường mà
còn mang lại thu nhập đáng kể, cải thiện đời sống người dân. Việc nhân rộng quy
này giúp tạo ra sản phẩm mới cho địa phương, cung cấp thêm nguồn thực phẩm có
giá trị về dinh dưỡng (Hồng Nga, 2007).
Quy trình
sản xuất nấm bào ngư bằng nguyên liệu trấu do Trung tâm Thông tin & Ứng
dụng TB KHCN Bình Thuận thực hiện nhằm mục tiêu phục vụ nhu cầu phát triển nghề
trồng nấm tại địa phương Bước đầu sản xuất thử nghiệm đã có được những kết quả
khả quan dụng nguồn phế thải trong xay xát lúa gạo giảm thiểu ảnh hưởng môi
trường (Kim Chi, 2009).
Đề tài nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây
dựng mô hình sản xuất và sơ chế, bảo quản nấm rơm và nấm bào ngư trên nguồn
nguyên liệu rơm và lục bình được Trung tâm Khuyến nông Long An phối hợp với sở
Khoa học Công nghệ Long An, Trung Tâm Công Nghệ Sinh học Ứng dụng Tp.HCM thực
hiện. Giải pháp hữu ích này nhằm tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn để nuôi
trồng tạo nguồn thu nhập vừa góp phần giảm ô nhiễm vừa thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển bền vững (Kim Hoa, 2010).
Chọn
lọc thành công nấm bào ngư xám năng suất cao, Phan Thị Nhiều và cộng sự
(2008) đề tài do Trung tâm Nghiên cứu linh chi và nấm
dược liệu TP.HCM thực hiện đã chọn lọc, phục tráng thành công loại nấm này (V.Giang,
2009).
Nghiên
cứu về các chất chiết xuất từ nấm ăn (Pleurotus ostreatus Fr.). Các chất
chiết xuất này có khả năng ức chế sự gia tăng của các tế bào ung thư ruột kết,
giúp con người điều trị và phòng ngừa bệnh ung thư ruột kết (D. Sliva, 2008).
Phương
pháp nuôi cấy nấm ăn (Pleurotus ostreatus Fr.). Sáng chế liên quan đến
nông nghiệp và lâm nghiệp, cụ thể là nuôi cấy nhân tạo nấm ăn trong các khu
trồng cây (rừng trồng). Mục đích là nâng cao thu hoạch nấm (V.I. Phomina,
1983).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét